Site icon SODO66

Quốc huy Việt Nam – biểu tượng đặc biệt, thiêng liêng, cao quý

Quốc huy Việt Nam - biểu tượng đặc biệt, thiêng liêng, cao quý - Ảnh 1.

Quốc huy Việt Nam là biểu tượng chính thức của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là biểu tượng thiêng liêng, tự hào của dân tộc; hàm chứa khát vọng về một nền hòa bình, độc lập, tự do và về một nước Việt Nam phát triển hùng cường, thịnh vượng, sánh vai với các cường quốc năm châu. Quốc huy Việt Nam được phác thảo bởi họa sĩ tài danh Bùi Trang Chước.

Hành trình sáng tạo Quốc huy Việt Nam

Quốc huy là huy hiệu tượng trưng cho quốc gia, là hình ảnh biểu thị quyền lực mang tính đại diện cao nhất của các cơ quan nhà nước. Ở mỗi quốc gia, Quốc huy thường được thể hiện bằng hình ảnh, màu sắc riêng, mang ý nghĩa thể hiện độc đáo, được quy định trong Hiến pháp của mỗi nước.

Quốc huy Việt Nam với thiết kế đặc biệt, được in trên các ấn phẩm quốc gia thể hiện sự uy nghi, trang trọng và là biểu tượng đặc biệt, thiêng liêng, cao quý.

Việc sáng tác Quốc huy Việt Nam được tiến hành vào những năm 1950 khi nước ta mở rộng quan hệ với các nước, khẳng định chủ quyền dân tộc thông qua hoạt động ngoại giao. Ngày 28/1/1951, Bộ Ngoại giao có công văn gửi Ban Thường trực Quốc hội về việc sáng tác Quốc huy. Ngay sau đó, cuộc thi sáng tác mẫu Quốc huy Việt Nam được phát động và thu hút đông đảo họa sĩ trong cả nước tham gia.

Trong số các bản vẽ tham dự cuộc thi sáng tác, 15 bản phác thảo mẫu Quốc huy Việt Nam của họa sĩ Bùi Trang Chước được Ban Mỹ thuật, Ngành Văn nghệ Trung ương, chọn gửi Bộ Tuyên truyền để trình Thủ tướng Chính phủ tháng 10/1954.

Trong bản Di bút Tôi vẽ mẫu Quốc huy viết ngày 26/4/1985, họa sĩ Bùi Trang Chước đã kể rất cụ thể về hành trình sáng tạo mẫu Quốc huy của mình, với 112 bản phác thảo mẫu (gồm 57 bản chì và 55 bản màu) vẽ tay từ năm 1953-1955. Họa sĩ viết: “Năm 1953, nhân dịp Nhà in Bộ Tài chính biệt phái tôi một thời gian để vẽ mẫu Bằng và Huân chương cho Chính phủ, đồng chí Trịnh Xuân Côn, Ban Pháp chế Phủ Thủ tướng phụ trách bộ phận Huân chương, đã đưa cho tôi một số mẫu Quốc huy của các nước xã hội chủ nghĩa làm tài liệu tham khảo để tôi phác thảo mẫu Quốc huy của ta.

Qua nghiên cứu Quốc huy của bạn, đều dùng những bông lúa hoặc liềm, búa hay bánh xe để tượng trưng cho công-nông nghiệp. Về nội dung bên trong dùng hình tượng mang đặc điểm của đất nước, dân tộc mình. Dựa trên những gợi ý đó, tôi phác thảo một số mẫu về hình dáng khác nhau, cũng dùng những bông lúa Việt Nam và các đe hoặc bánh xe, tượng trưng cho công-nông nghiệp. Về nội dung bên trong, tôi dùng hình tượng cây tre hoặc con trâu. Song thấy cây tre, con trâu ở một số nước Á đông khác cũng có, tôi lại dùng địa danh lịch sử, như: Đền Hùng, Gò Đống Đa, Ô Quan Chưởng hoặc Khuê Văn Các, Chùa Một Cột, Tháp Rùa… Nhưng tôi thấy các phác thảo đó về hình dáng còn rắc rối, cầu kỳ và nội dung cũng chưa được ổn…

Phác thảo mẫu Quốc huy Việt Nam cuối cùng của tôi hồi đó là trình bày theo hình tròn, hai bên chung quanh là các bông lúa Việt Nam, có mấy bông rủ vào bên trong ôm cái đe ở giữa phía dưới, tượng trưng cho công-nông nghiệp, dưới đe là dải lụa sau này có chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hai đầu dải lụa quấn hai bên bông lúa từ dưới lên mỗi bên hai đoạn.

Ở giữa phía trên trong nền là ngôi sao vàng trên nền đỏ. Dưới ngôi sao gần giữa trung tâm nền là vòng cung mặt trời, có tia chiếu sáng chung quanh, gợi nên hình ảnh của buổi bình minh.

Toàn bộ Quốc huy tôi dùng hai màu vàng và đỏ. Khi thực hiện sơn mài là sơn son thiếp vàng, màu cổ truyền hoành phi câu đối của ta hay dùng.

Các mẫu này sau đó được trình Bác Hồ, Bác chọn góp ý: Hình tượng cái đe là thủ công nghiệp cá thể, nên dùng hình tượng tượng trưng cho nền công nghiệp hiện đại”…

Sau khi chỉnh sửa theo góp ý của Bác Hồ, trong Di bút của mình, họa sĩ Bùi Trang Chước viết: “Mẫu Quốc huy lần này tôi cũng vẽ hình tròn, chung quanh hai bên có thêm những bông lúa kéo dài lên trên tiếp giáp với nhau ở đỉnh trục đường vòng tròn, hai bên vẫn giữ những bông lúa rủ xuống vào trong ôm lấy bánh xe thay cho cái đe, ở phía dưới, dải lụa ở giữa có chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hai đầu dải lụa vẫn quấn lên các bông lúa mỗi bên hai đoạn, gốc các bông lúa bắt chéo nhau tạo thành đế Quốc huy thót hai đầu cho gọn.

Phía bên trong nền là ngôi sao, dưới ngôi sao để trống cho thoáng, không có mặt trời và tia chiếu sáng chung quanh. Về màu sắc, riêng nền bên trong Quốc huy và giải lụa là màu đỏ, còn các hoạ tiết khác, như: các bông lúa, ngôi sao và bánh xe đều là màu vàng”…

Mẫu Quốc huy sau khi chỉnh sửa này của họa sĩ Bùi Trang Chước được Trung ương duyệt và có ý kiến chỉ đạo chỉnh sửa một số chi tiết nhỏ. Nhưng khi đó, họa sĩ Bùi Trang Chước nhận nhiệm vụ tuyệt mật của Chính phủ là vẽ và in tiền, do vậy, việc chỉnh sửa một vài chi tiết này đã được giao cho họa sĩ Trần Văn Cẩn thực hiện.

Đến ngày 14/1/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 254-SL về việc ban bố mẫu Quốc huy nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kèm theo đó là Phụ lục số 1 và 2 in mẫu vẽ Quốc huy có tô màu vàng kim nhũ và Quốc huy không tô màu. Tạo hình mẫu thiết kế Quốc huy được chọn có 4 phần, cụ thể là hai bông lúa vàng đậm mọc uốn theo khuôn hình tròn, có bông lúa dài và bông lúa ngắn, trên nền vàng tươi cân đối hai bên đại diện cho nông nghiệp. Trên nền đỏ, khu vực giữa Quốc huy ở phía trên có ngôi sao vàng năm cánh, phía dưới có hình bánh xe răng cưa tượng trưng cho công nghiệp. Tiếp dưới là hình dải lụa mềm mang dòng chữ Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Sau khi đất nước thống nhất, ngày 2/7/1976, Quốc hội khóa VI quyết định chọn Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mẫu Quốc huy được sửa đổi phần quốc hiệu: dải lụa mềm phía dưới mang dòng chữ in hoa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hiến pháp năm 2013 mô tả Quốc huy tại khoản 2 Điều 13 như sau: “Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Theo các nhà nghiên cứu, mẫu Quốc huy cho thấy sự công phu, sáng tạo của tác giả. Với hai màu chủ đạo đỏ-vàng, bố cục được tạo nên cân đối, vững chắc, các hình tượng trong Quốc huy được nghiên cứu chắt lọc mang tính tượng trưng, chuẩn mực. Ngôi sao vàng được thể hiện 5 cánh đều và nổi ở tâm ngôi sao, màu vàng của các cánh sao có sự thay đổi sắc độ theo ánh sáng. Trên 2 bó lúa chín vàng với 54 hạt lúa tượng trưng cho 54 dân tộc được thể hiện tinh tế, sinh động cùng dải lụa mềm màu đỏ cuốn quanh vừa thể hiện tinh thần mềm mại kết nối tạo hình thiết kế của các yếu tố lại với nhau, vừa tạo nên tính thẩm mỹ hài hòa. Mẫu Quốc huy Việt Nam hoàn chỉnh và đẹp về hình thức, sâu sắc về nội dung, đã thể hiện cô đọng, súc tích về đất nước Việt Nam.

Quốc huy Việt Nam không chỉ là biểu tượng cô đọng, đầy đủ và súc tích về đất nước, con người Việt Nam mà còn hàm chứa khát vọng tha thiết về sự phát triển đất nước của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, khẳng định chủ quyền thiêng liêng của quốc gia độc lập.

Có thể thấy, những bản phác thảo mẫu Quốc huy của họa sĩ Bùi Trang Chước chính là nguồn gốc, cơ sở, tiền đề, nền tảng cho Quốc huy chính thức của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đồng thời các bản phác thảo còn mang những dấu ấn đặc biệt về chủ đề, nội dung, ý nghĩa từng chi tiết tác phẩm, mang âm hưởng, hơi thở của dân tộc trong từng mẫu vẽ và vô cùng phong phú về hình ảnh, màu sắc, độc đáo về hình thức, bố cục, trình bày, giá trị nghệ thuật…

Ngày 25/12/2021, tập phác thảo mẫu Quốc huy Việt Nam của họa sĩ Bùi Trang Chước được công nhận là Bảo vật quốc gia theo Quyết định số 2198/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Năm 2022, họa sĩ Bùi Trang Chước được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật cho ba cụm tác phẩm, trong đó có tác phẩm mẫu Quốc huy Việt Nam.

Họa sĩ Bùi Trang Chước và những dấu ấn trên các biểu tượng quan trọng của đất nước

Họa sĩ Bùi Trang Chước, tên thật là Nguyễn Văn Chước, sinh ngày 21/5/1915, tại làng Phú Xá, xã Phú Thượng, huyện Từ Liêm (nay là phường Phú Thượng, quận Tây Hồ), Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp xuất sắc trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, khóa 1936-1941, ông được cử về giảng dạy tại trường Kiến trúc Đà Lạt.

Cả cuộc đời sáng tạo nghệ thuật của ông là sự kết tinh một cách tài tình biệt tài của họa sĩ với lòng yêu nước sâu sắc mang đậm bản sắc dân tộc. Bùi Trang Chước được đánh giá là một họa sĩ tài năng của nền hội họa, một bậc thầy trong nghệ thuật đồ họa Việt Nam. Ông đã để lại nhiều dấu ấn trên các biểu tượng quan trọng của đất nước, đặc biệt là mẫu Quốc huy Việt Nam, cùng các mẫu Huân chương, tem thư, mẫu tiền…

Họa sĩ Bùi Trang Chước là một trong những người vẽ tem bưu chính đầu tiên ở Việt Nam và toàn Đông Dương. Năm 1944, Đô đốc Decoux quyết định cho Đông Dương phát hành loại tem mới có giá trị nghệ thuật cao. Các mẫu tem này đều do họa sĩ Bùi Trang Chước thực hiện. Đó là các mẫu tem: Nam Giao, hoàng đế Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương, hội chợ Sài Gòn… với nhiều mẫu và mệnh giá khác nhau.

Trước đó, việc thiết kế tem hầu như chỉ dành riêng cho các họa sĩ Pháp, hiếm hoi lắm mới có một vài mẫu của họa sĩ Việt Nam được chọn như mẫu của họa sĩ Tôn Thất Sa và họa sĩ Nguyễn Đình Chi (người Huế).

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, họa sĩ Bùi Trang Chước giảng dạy tại trường Mỹ thuật Hà Nội. Năm 1946, toàn quốc kháng chiến bùng nổ, họa sĩ lên Việt Bắc theo cách mạng và giảng dạy ở trường Mỹ thuật Liên khu Việt Bắc. Năm 1951-1952, ông được phân công vẽ giấy bạc ở Nhà in Ngân hàng.

Năm 1953, do có biệt tài về đồ họa, ông được Bộ Tài chính biệt phái sang Ban Pháp chế Phủ Thủ tướng làm nhiệm vụ thiết kế mẫu Bằng khen, Huân, Huy chương cho Chính phủ. Ông chính là tác giả của Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, Huân chương Quân công các loại. Sau đó, ông tham gia cuộc thi sáng tác mẫu Quốc huy và làm nhiệm vụ thiết kế tiền giấy tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Đặc biệt, họa sĩ Bùi Trang Chước còn là tác giả chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên huy hiệu đúc bằng vàng mà phi công Phạm Tuân mang theo khi bay vào vũ trụ năm 1980. Đây cũng là mẫu huy hiệu Bác Hồ được sử dụng hiện nay.

Bên cạnh đó, họa sĩ Bùi Trang Chước còn sáng tác nhiều tem thư và biểu trưng nổi tiếng, như: biểu trưng Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), biểu trưng Ngày Thương binh Liệt sỹ, biểu trưng Xưởng Phim Việt Nam…

Ông cũng là tác giả của nhiều bộ tem quý, như: Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1951, bộ tem Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954. Từ năm 1955, ông tiếp tục cho ra đời các bộ tem nổi tiếng như: Cải cách ruộng đất, Mừng Chính phủ về Thủ đô, Anh hùng Cù Chính Lan, Anh hùng Mạc Thị Bưởi… Đây đều là những bộ tem có giá trị thẩm mỹ cao, được vẽ công phu, tỉ mỉ, đạt đến trình độ “bậc thầy” của ngành đồ họa, trong đó bộ tem vẽ chân dung anh hùng Mạc Thị Bưởi được giới sưu tập tem ghi nhận là bộ tem Việt Nam có giá bán đắt nhất.

Họa sĩ Bùi Trang Chước còn để lại nhiều tác phẩm hội họa có giá trị với các chất liệu phong phú, đang được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Và một điều mọi người ít được biết là: mặt tiền trang trí Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính là tác phẩm của ông.

Họa sĩ Lương Xuân Đoàn, Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam, từng chia sẻ: Nhìn vào những bản thảo mà họa sĩ Bùi Trang Chước để lại, có thể thấy ông là một họa sĩ tài năng; toát lên phẩm cách cao đẹp của một người họa sĩ tài hoa, cả một đời cống hiến thầm lặng, hết mình cho đất nước và dân tộc. Ngoài tài năng, phẩm cách cao đẹp, chúng ta còn thấy ở ông sự sáng tạo, sáng tạo không ngừng cho đến phút cuối cùng. Đây là tấm gương sáng cho các thế hệ mai sau noi theo. Và ông xứng đáng được trao tặng giải thưởng cao quý vì những đóng góp cho đất nước.

Họa sĩ Bùi Trang Chước qua đời ngày 27/2/1992, tại Hà Nội. Để ghi dấu tài năng của ông, Đảng và Nhà nước đã tặng ông nhiều Huân chương và giải thưởng cao quý, như: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất (1988), Huân chương Lao động hạng Nhì (1988), giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (2022)… Tên ông được đặt cho hai đường phố tại thủ đô Hà Nội và thành phố Đà Nẵng.

Họa sĩ Bùi Trang Chước còn được Trung tâm Tiểu sử quốc tế Cambridge của Anh vinh danh vì sự nghiệp cống hiến cho hội họa. Ông có tên trong danh sách Danh nhân quốc tế của tổ chức Who’s Who xuất bản lần thứ 13 (năm 1999) và trong danh sách Những người xuất chúng vì quốc tế xuất bản lần thứ 7 (năm 1998).

Exit mobile version